Trí tuệ đám đông 1 Góc nhìn khám phá The New Yorker TRÍ TUỆ ĐÁM ĐÔNG Vì sao Đa số thông minh hơn Thiểu số (The Wisdom of Crowds) Tác giả: James Surowiecki Nhà xuất bản: Anchor Năm xuất bản: 2006 Số trang: 336 Dịch giả: Nguyễn Thị Yến, Trần Ngọc Hiếu NXB Việt Nam: Tri thức Học thuyết đa trí tuệ không chỉ bao gồm hai kỹ năng cơ bản là đọc và viết mà là tổng hợp của: thị giác, vận động, toán học, giao tiếp, âm nhạc, thiên nhiên, nội tâm và ngôn ngữ. Triết học Duy tâm đã có những hiểu biết khá sâu sắc về Trí tuệ. Phật giáo đã biết về Trí tuệ từ hai ngàn năm trăm năm trước. 3. Trí tuệ có ba thuộc tính, đó là tính Vận động, tính Sáng tạo và tính Chủ quan. Đây mới là điều quan trọng. Thật là ngây thơ, khi lấy chỉ số I.Q. để đánh giá tiềm năng Trí tuệ của một con người. Nhà tâm lí học nổi tiếng J. Piaget khi nghiên cứu về cấu trúc nhận thức về trí tuệ của học sinh đã chỉ ra rằng nhận thức của con người ở bất cứ cấp độ nào đều thực hiện các thao tác trí tuệ Các chỉ số thông minh theo thuyết Đa Trí Tuệ giúp xác định thiên hướng nghề nghiệp bao gồm: Trí thông minh Ngôn ngữ, thông minh Logic toán học, thông minh Không gian, thông minh Vận Động, thông minh Âm nhạc, thông minh Tương tác, thông minh Nội tâm, thông minh Thiên nhiên và chỉ số thông minh Hiện sinh; . Thuyết đa trí tuệ là một lý thuyết về trí thông minh của con người được nhìn nhận bằng nhiều cách, mang tính đa dạng, được nghiên cứu và công bố bởi tiến sĩ Howard Gardner.[1] Theo Gardner, trí thông minh intelligence được ông quan niệm như sau “là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra các sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều môi trường văn hóa” và trí thông minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số IQ. Năm 1983, ông đã xuất bản một cuốn sách có nhan đề Frames of Mind tạm dịch Cơ cấu của trí tuệ, trong đó ông công bố các nghiên cứu và lý thuyết của mình về sự đa dạng của trí thông minh Theory of Multiple Intelligences.[2] Những bằng chứng làm cơ sở[sửa sửa mã nguồn] Thuyết trí thông minh đa dạng không phải là khuôn mẫu đầu tiên cho rằng có nhiều cách khác nhau để trở thành người khôn ngoan, rất nhiều những dạng thông minh khác đã được gợi ý, Chúng bao gồm những dạng sau khiếu hài hước, óc sáng tạo, tài nấu ăn, sự duy linh, đạo đức, bản năng giới tính, trực giác, khả năng khứu giác, khả năng ngoại cảm, khả năng ghi nhớ, trí khôn ngoan, khả năng kỹ thuật, cảm nhận chung và trí thông minh đường phố, đã có rất nhiều loại luận thuyết về trí thông minh được đưa ra, theo đó có hơn 150 dạng thông minh khác nhau, nhưng chỉ có 7 dạng thông minh đủ bằng chứng cơ sở đó là Thứ nhất Mỗi trí thông minh đều có khả năng được biểu tượng hóa[sửa sửa mã nguồn] Thứ hai Mỗi trí thông minh đều có một lịch sử phát triển của riêng nó[sửa sửa mã nguồn] Thứ ba Mỗi trí thông minh đều sẽ bị biến mất khi não bị tổn thương ở vùng đặc trưng[sửa sửa mã nguồn] Thứ tư Mỗi trí thông minh đều có nền tảng và giá trị văn hóa riêng của nó[sửa sửa mã nguồn] Danh sách các trí thông minh[sửa sửa mã nguồn] Trí thông minh ngôn ngữ[sửa sửa mã nguồn] Đây là trí thông minh của các phóng viên, nhà văn, người kể chuyện, các nhà thơ và luật sư, người có khả năng về ngôn ngữ có thể tranh biện, thuyết phục, làm trò, hay hướng dẫn hiệu quả thông qua sử dụng lời nói, Trí thông minh logic toán học[sửa sửa mã nguồn] Là loại hình thông minh đối với những con số và sự logic, đây là trí thông minh của các nhà khoa học, kế toán viên và những người lập trình máy tính, nét tiêu biểu về trí thông minh logic toán học gồm có khả năng xác định nguyên nhân, chuỗi các sự kiện, tìm ra quy tắc dựa trên các khái niệm. Trí thông minh hình ảnh không gian[sửa sửa mã nguồn] Trí thông minh không gian liên quan đến việc suy nghĩ bằng hình ảnh, biểu tượng và khả năng cảm nhận, chuyển đổi và tái tạo các góc độ khác nhau của thế giới không gian trực quan, đó là mảnh đất sáng tạo của các kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia, nghệ sỹ, các phi công và các kỹ sư cơ khi máy móc, những người đã thiết kế ra Kim tự tháp Ai Cập có rất nhiều trí thông minh này. Trí thông minh âm nhạc[sửa sửa mã nguồn] Đặc điểm cơ bản của trí thông minh âm nhạc là khả năng cảm nhận, thưởng thức và tạo ra các tiết tấu nhịp điệu, đó là trí thông minh của các nhạc công hay những ca sĩ, ngoài ra trí thông minh âm nhạc còn có trong tiềm thức của bất cứ cá nhân nào, miễn là người đó có khả năng nghe tốt và hát theo giai điệu. Trí thông minh vận động thể chất[sửa sửa mã nguồn] Khả năng vận động thân thể là loại hình thông minh của chính bản thân cơ thể, nó bao gồm tài năng trong việc điều khiển các hoạt động về thân thể, khiến các hoạt động của thân thể và các thao tác cầm nắm một cách khéo léo, các vận động viên thể thao, những người làm nghề thủ công, thợ cơ khí và các bác sĩ phẫu thuật là những người sở hữu khả năng này, Trí thông minh tương tác cá nhân[sửa sửa mã nguồn] Đây là năng lực hiểu và làm được với những người khác, khả năng nhìn thấu suốt bên trong người khác, từ đó nhìn ra viễn cảnh bên ngoài bằng chính con mắt của họ, Trí thông minh nội tâm[sửa sửa mã nguồn] Trí thông minh nội tâm là năng lực tự nhận thức về bản thân, một người có tư duy này có thể dễ dàng tiếp cận và nhìn rõ được những cảm xúc của bản thân mình, người có trí thông minh này họ thường hay xem xét bản thân và thích trầm tư suy nghĩ, được ở trạng thái tĩnh lặng hay các trạng thái tìm hiểu tinh thần một cách sâu sắc khác, họ thích làm việc một mình hơn làm việc cùng những người khác, họ là người có tính độc lập và tính tự giác tốt. Những dạng thông minh được bổ sung[sửa sửa mã nguồn] Trí thông minh thiên nhiên[sửa sửa mã nguồn] Trí thông minh thiên nhiên là khả năng tinh thông trong việc nhận dạng và phân loại vô số chủng loại động thực vật trong môi trường. Đối với mỗi dạng trong bảy loại hình thông minh đầu tiên, có rất nhiều cách để thể hiện chúng ra thế giới bên ngoài. Có lẽ rõ rệt nhất, những người có cảm nhận về thiên nhiên bộc lộ trí thông minh của mình. Đó là sở trường của những người làm vườn, trồng cây cảnh, sáng tạo khung cảnh thiên nhiên, hay nói cách khác là thể hiện sự quan tâm tự nhiên của mình đối với thực vật Trí thông minh hiện sinh[sửa sửa mã nguồn] Trí thông minh hiện sinh có rất ít mối quan hệ với bất kỳ hệ tư tưởng nào. Hơn thế, định nghĩa trí thông minh hiện sinh là trí thông minh liên quan tới các vấn đề cơ bản của cuộc sống. Những câu hỏi như “Cuộc sống là gì?” “Ý nghĩa của nó là gì?” “Vì sao lại có quỷ dữ?” “Loài người sẽ tiến tới đâu?” và “Chúa có tồn tại hay không?” là những điểm khởi đầu mạnh mẽ cho một cuộc khai phá tầm nhận thức sâu sắc hơn. định nghĩa khả năng của trí thông minh hiện sinh gồm hai phần – Xác định bản thân tới những tầm xa nhất của vũ trụ – nơi tận cùng, vô tận. – Xác định bản thân với những tính năng hiện hữu nhất của điều kiện con người – tầm quan trọng của cuộc sống, ý nghĩa của cái chết, số mệnh cuối cùng của thế giới vật chất, tinh thần, những trải nghiệm sâu sắc như là tình yêu của con người hoặc niềm đam mê nghệ thuật. Một số người có nhiều trí thông minh hiện sinh do họ đã tìm thấy một “chân lý cuối cùng”, trong khi những người khác kém hơn vì không tìm ra. Những người có trí thông minh hiện sinh có thể là nhà thần học, mục sư, giáo sỹ Do Thái, pháp sư, linh mục, thầy dạy Yoga, nhà sư và những thầy trưởng tế Hồi giáo. Mỗi người trong số họ có thể có những nhận thức khác nhau về bản chất của chân lý tuyệt đối. Nhưng cũng có những người theo thuyết bất khả tri, những triết gia theo phái hoài nghi, phái vô thần, phái châm chích, những người báng bổ hoặc những nhà dị giáo – những người thể hiện một trình độ cao hơn của trí thông minh hiện sinh bởi họ luôn cố xoay xở với những câu hỏi ở mức độ căng thẳng và phức tạp Tham khảo[sửa sửa mã nguồn] ^ Slavin, Robert 2009 Educational Psychology, p. 117 ISBN 0-205-59200-7 ^ McKenzie, W. 2005. Multiple intelligences and instructional technology. ISTE International Society for Technology Education. ISBN 156484188X Liên kết ngoài[sửa sửa mã nguồn] Thuyết đa trí tuệ của Nhà tâm lý học, Giáo sư Howard Gardner – Đại học Harvard có tính ứng dụng cao, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục. Bài viết hôm nay sẽ giúp bạn hiểu hơn về học thuyết này cũng như những lợi ích mà học thuyết mang lại trong học trí tuệ Theory of Multiple Intelligences là học thuyết nói về trí thông minh của con người do Nhà tâm lý học, Giáo sư Howard Gardner nghiên cứu và phát triển. Năm 1983, học thuyết chính thức được công bố và không ngừng được chỉnh sửa, bổ sung qua các năm. Đến nay, học thuyết đa trí tuệ của giáo sư Howard Gardner công nhận con người có 8 loại hình thông minh độc lập, bao gồm Trí thông minh ngôn ngữLà khả năng sử dụng ngôn từ trong giao tiếp và trong văn viết của một người. Cụ thể, người đó có vốn từ vựng cao và sử dụng linh hoạt, nhạy bén. Vì thế, luôn thu hút và thuyết phục được người nghe, người đọc. Những người giao tiếp giỏi, hoạt ngôn thường sở hữu loại hình trí thông minh này. Người sở hữu trí thông minh ngôn ngữ thường rất hoạt ngôn, ăn nói lưu loát và diễn đạt trôi Trí thông minh logic – toán học Là khả năng nhạy bén với những con số và tư duy suy luận logic. Người sở hữu trí thông minh này thường có những lập luận sắc sảo và chính xác. Khó có thể bắt bẻ hay làm khó được họ. Bởi đối với họ, các con số là bằng chứng thiết thực và quan trọng nhất. Trí thông minh vận động – thể chấtTheo thuyết đa trí tuệ, trí thông minh vận động – thể chất chính là khả năng đặc biệt đối việc điều khiển các hoạt động của cơ thể. Người có trí thông minh này có thể kết hợp nhuần nhuyễn và khéo léo các động tác khác nhau từ nhiều bộ phận trên cơ Trí thông minh không gian – thị giácLà khả năng suy nghĩ đa chiều ở nhiều góc độ. Khi nhìn vào một hình ảnh, biểu tượng nào đó, ngay lập tức, trong đầu sẽ ghi nhớ và tái tạo những hình ảnh, biểu tượng này theo thế giới không gian. Rồi từ đó, sẽ trình bày ở những góc độ mà đối với người bình thường là rất khó. Thông minh âm nhạc – thính giácThuyết đa trí thông minh nêu rõ, trí thông minh âm nhạc – thính giác chính là khả năng cảm nhận, thưởng thức âm nhạc ở trình độ cao. Tức là khi nghe một bài hát nào đó, có thể nhận ra được giai điệu, tiết tấu, hợp âm, các nốt nhạc,… có trong bài hát. Đặc biệt, có thể trình bày lại một cách chuẩn xác và ấn thông minh âm nhạc là khả năng cảm nhận nhạy bén với các giai điệu, tiết tấu, hợp âm,… Trí thông minh tương tác Là khả năng hiểu rõ được suy nghĩ, tâm tư và nguyện vọng của người khác. Từ đó, dễ dàng gắn kết mọi người lại với nhau. Người sở hữu trí thông minh này có tố chất lãnh đạo và được nhiều người tin tưởng. Đứng trước đám đông, họ luôn thể hiện được sự tự tin và sức hút của mình. Trí thông minh nội tâmNgược lại với trí thông minh tương tác, trí thông minh nội tâm là khả năng hiểu rõ bản thân. Cụ thể, biết được bản thân có thế mạnh và điểm yếu gì, mục tiêu và dự định phát triển trong tương lai như thế nào,… Từ đó đề ra những kế hoạch và chiến lược cụ thể để hoàn thành các mục tiêu. Trí thông minh thiên nhiên Đứng cuối cùng trong thuyết đa trí thông minh chính là trí thông minh thiên nhiên. Đây là khả năng nhận biết và đánh giá mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên. Hoặc cũng có thể hiểu là lòng yêu thiên nhiên cỏ cây, hoa lá, động vật của một người nào đó. Theo thuyết đa trí tuệ, trí thông minh thiên nhiên thể hiện ở tính cách hòa mình vào thiên nhiên2. Ứng dụng thuyết thông minh đa trí tuệ vào học tậpThuyết đa trí tuệ của Nhà tâm lý học, Giáo sư Howard Gardner có thể được ứng dụng vào giáo dục, học tập để mang lại nhiều lợi ích cho cả giáo viên và học sinh. Hiểu rõ học sinhThông qua các bài đánh giá, giáo viên có thể biết được các học sinh của mình sở hữu trí thông minh nào trong 8 loại hình trí thông minh của lý thuyết đa trí tuệ. Chẳng hạn, nếu trẻ làm tốt các bài test về âm nhạc thì chứng tỏ bé sở hữu trí thông minh âm nhạc. Đối với học sinh, việc tham gia vào các bài test sẽ giúp hiểu rõ bản thân mình hơn. Chẳng hạn như có thế mạnh trong môn học nào, làm gì để phát huy những thế mạnh này để đạt kết quả học tập tốt hơn,… Thậm chí là có thể xác định được tương lai nghề nghiệp mình sẽ theo đuổi. Ứng dụng thuyết đa trí tuệ giúp giáo viên có thể hiểu rõ được khả năng, sở trường của từng học sinh Xây dựng các hoạt động trường, lớpHiện nay, các hoạt động ở trường lớp chủ yếu xoay quanh trí thông minh ngôn ngữ và trí thông minh toán học – logic. Nhưng nếu ứng dụng thuyết thông minh đa trí tuệ thì sẽ cần xây dựng nhiều hoạt động khác ngữ Giáo viên có thể cho học sinh làm văn mô tả, nghị luận về một vấn đề nào đó. Hoặc yêu cầu trẻ ghi chép những gì đã được học trong một ngày một cách cụ thể. Toán học – logic Ngoài việc cho học sinh giải toán, giáo viên có thể nêu ra một vấn đề và yêu cầu trẻ tìm kiếm nguyên nhân và hướng giải quyết theo nhiều cách khác nhau. Vận động – thể chất Hướng dẫn trẻ các bài tập thể dục, nhảy, hoặc dùng động tác, cử chỉ để mô tả một vấn đề. Ngoài ra, có thể cho học sinh thực hành nặn đất sét, tô tượng, lắp ghép các hình khối, lego,… Không gian – thị giác Khuyến khích học sinh mô tả, trình bày vấn đề theo sơ đồ. Dùng ký tự và màu sắc để trình bày mọi thứ thật chi tiết và bắt mắt, thay vì phải chép tay nhàm chán theo kiểu truyền thống. Âm nhạc Cho học sinh tiếp xúc với nhiều loại nhạc cụ khác nhau, tổ chức các cuộc thi hát, sáng tác,… là những cách để trẻ phát triển trí thông minh âm nhạc hiệu quả. Tương tác Tạo ra các buổi học nhóm, buổi thảo luận sôi động trong chính các buổi học. Điều này sẽ giúp học sinh có trí thông minh tương tác cảm thấy hứng khởi và phát huy tốt nhất sở trường của mình. Nội tâm Đối với học sinh sở hữu trí thông minh này, hãy cho trẻ viết những bài thu hoạch, bài văn dựa trên chủ đề cá nhân. Chẳng hạn, buổi học này như thế nào, làm sao để bản thân tiếp thu kiến thức hiệu quả hơn,… Thiên nhiên Hoạt động thiết thực nhất để phát triển loại hình trí thông minh này là tổ chức các buổi ngoại khóa, chuyến đi thực tế. Trẻ sẽ được gần gũi với thiên nhiên và thỏa sức khám phá thế giới kỳ chung, có rất nhiều cách để ứng dụng học thuyết đa trí thông minh vào giáo dục, học tập. Và đương nhiên, cách nào cũng sẽ đòi hỏi mất nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị, thực đó, giáo viên có thể bắt đầu với những loại hình trí thông minh mà mình thường không sử dụng trong bài giảng. Đó có thể là trí thông minh tương tác, nội tâm và thiên nhiên. Sau đó sẽ tiếp tục ứng dụng các hoạt động khác cho các loại hình trí thông minh khác. Cùng Test online miễn phí tại đâyHy vọng những chia sẻ trên đây giúp bạn hiểu được tầm quan trọng của thuyết đa trí tuệ trong giáo dục, học tập. Nếu bạn là giáo viên, có thể ứng dụng hiệu quả vào công tác giảng dạy để mang đến những buổi học chất lượng. Đồng thời, phát huy được những thế mạnh của từng học sinh. … …testiqfree Trong nhiều năm, mô hình dựa trên một loại trí thông minh duy nhất đã bị bỏ lại phía sau. Người ta đã quan sát thấy rằng mô hình trí thông minh truyền thống hơn chỉ đo được một số năng lực toán học logic và nhiều người có thể hoạt động đúng và thích nghi với hoàn cảnh của cuộc sống mà không cần phải có trí thông minh đó phát triển..Mô hình của đa trí tuệ đề xuất bởi Howard Gardner năm 1983 Ông khẳng định rằng có nhiều loại trí thông minh khác nhau và mỗi cá nhân phát triển những loại phù hợp nhất với mình. Cho dù đó là bồi dưỡng trí thông minh âm nhạc, thể xác, giữa các cá nhân, Chủ nghĩa tự nhiên hay toán học logic, mỗi người có tiềm năng cao để có thể làm nổi bật và củng cố loại này hay loại khác của trí thông minh. Trong bài viết Tâm lý-Trực tuyến sau đây, chúng tôi sẽ nói về các loại đa trí tuệ và lý thuyết của Howard Gardner. Bạn cũng có thể quan tâm Lý thuyết về chỉ số sáng tạo Lý thuyết về đa trí tuệ định nghĩa và tóm tắt của cuốn sách Các loại hình thông minh và ví dụ theo Gardner Nhiều trí tuệ trong lớp học các hoạt động cho giáo dục Các hoạt động phát triển đa trí tuệ Đa thông minh KIỂM TRA Lý thuyết về đa trí tuệ định nghĩa và tóm tắt của cuốn sách Tiến sĩ Howard Gardner, giám đốc Project Zero và giáo sư tâm lý học và khoa học giáo dục tại Đại học Harvard, đã đề xuất từ ​​năm 1993 Lý thuyết đa trí tuệ. Thông qua lý thuyết này, Tiến sĩ Gardner đã đi đến kết luận rằng thông minh không phải là thứ gì đó bẩm sinh và cố định chi phối tất cả các kỹ năng và khả năng giải quyết các vấn đề mà con người sở hữu, đã chứng minh rằng trí thông minh nằm ở các khu vực khác nhau của não, liên kết với nhau và chúng cũng có thể hoạt động riêng lẻ, có tài sản để phát triển rộng rãi nếu chúng tìm thấy một môi trường cung cấp các điều kiện cần thiết cho sử của nhiều trí tuệ quay trở lại cuốn sách "cấu trúc của tâm trí" của Howard Gardner. Điều này giới thiệu khái niệm đa trí tuệ đặt ra vấn đề sau[1]Một cô bé dành một giờ với một giám khảo, người đặt câu hỏi cho cô ấy đánh giá trí thông minh của bạn '¿Ai phát hiện ra nước Mỹ? "¿Không phóng đại có nghĩa là gì??'hoặc về khả năng ghi nhớ số của bạn'hoàn thành chuỗi sau 1, 1, 2, 3, 5, 8 ' ... Một giờ sau, giám khảo đánh giá các câu trả lời và nhận được một số IQ hoặc IQ. Con số này có thể trở thành yếu tố quyết định khủng khiếp đối với lòng tự trọng và quan niệm về bản thân của cô gái, tầm quan trọng chúng ta dành cho IQ không hoàn toàn tương xứng.¿Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta xem xét một cái nhìn rộng hơn và đa dạng hơn về trí thông minh?Sau đó, chúng ta hãy xem xét, những người có lẽ không biết cách đọc thuộc một giáo trình văn học bằng trái tim nhưng những người có thể thành công trong một tình huống bị xâm phạm thông qua suy nghĩ linh hoạt và nhanh nhẹn. Hoặc những đứa trẻ gặp khó khăn trong việc giải phương trình nhưng không có vấn đề gì trong việc vượt qua các bài kiểm tra thể chất cấp cao. ¿Làm thế nào chúng ta có thể định nghĩa rất nhiều loại trí thông minh?Định nghĩa đa trí tuệChúng tôi định nghĩa nhiều trí tuệ là tám năng lực nhận thức mà tất cả chúng ta sở hữu ở một mức độ nhất định. Những khả năng này là tương đối tự chủ và chúng được xác định từ nghiên cứu về các khả năng tinh thần được xác định thông qua một nghiên cứu về các trường hợp cụ thể giống như các ví dụ mà chúng ta đã xác định trước đó. Các loại trí thông minh khác nhau có thể được phát triển thông qua thực hành và củng cố, vì vậy nó không hoàn toàn bẩm sinh, tiềm năng của con người đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy đa trí tuệ theo Gardner. Các loại hình thông minh và ví dụ theo Gardner Trong ấn bản năm 1983 của cuốn sách "Đa trí tuệ", Gardner khẳng định sự tồn tại của bảy loại trí thông minh, tuy nhiên, ngày nay chúng ta có thể liệt kê Tám loại trí thông minh theo Howard ta hãy xem mỗi một trong số nhiều thông minh này với các ví dụ1. Trí thông minh ngôn ngữTrí thông minh bằng lời nói là một thứ có thể quan sát thấy ở những người dễ dàng thể hiện, hiểu và phát triển các thông điệp bằng lời nói phức tạp. Nhờ trí thông minh ngôn ngữ, chúng ta có thể học các ngôn ngữ mới dễ dàng hơn, các khu vực não như vùng Broca và Wernicke chịu trách nhiệm sản xuất và hiểu ngôn ngữ thường được phát triển hơn trong những trường hợp là khả năng sử dụng hiệu quả các từ, thao tác cấu trúc hoặc cú pháp của ngôn ngữ, ngữ âm, ngữ nghĩa và kích thước thực tế của chúng. Chúng ta có thể tìm thấy loại trí thông minh này ở những đứa trẻ yêu thích viết truyện, đọc, chơi với vần, lưỡi và những người dễ dàng học các ngôn ngữ Trí tuệ vật lýĐó là khả năng sử dụng cơ thể của chính mình để thể hiện ý tưởng và cảm xúc, và đặc thù của họ về sự phối hợp, cân bằng, khéo léo, sức mạnh, tính linh hoạt và tốc độ, cũng như sự hiểu biết và xúc giác..Nó được đánh giá cao ở trẻ em xuất sắc trong thể thao, khiêu vũ, ngôn ngữ cơ thể và / hoặc công việc xây dựng bằng cách sử dụng các vật liệu cụ thể khác nhau. Ngoài ra ở những người có kỹ năng thực hiện các công Trí thông minh toán họcĐó là khả năng xử lý số, mối quan hệ và các mẫu logic một cách hiệu quả, cũng như các chức năng và trừu tượng khác của loại đứa trẻ đã phát triển nó phân tích các tình huống và vấn đề dễ dàng. Họ tiếp cận các tính toán, số liệu thống kê và ngân sách với sự nhiệt Trí thông minh không gianĐó là khả năng đánh giá một cách chắc chắn hình ảnh trực quan và không gian, để thể hiện các ý tưởng bằng đồ họa và cảm nhận màu sắc, đường nét, hình dạng, hình dạng, không gian và mối liên hệ của là ở trẻ em học tập tốt hơn với đồ họa, sơ đồ, hình ảnh. Họ thích làm bản đồ khái niệm và tinh thần. Họ hiểu kế hoạch và phác thảo rất Trí thông minh âm nhạcĐó là khả năng nhận thức, phân biệt, biến đổi và thể hiện nhịp điệu, giai điệu và giai điệu của âm thanh âm đứa trẻ chứng minh nó bị thu hút bởi âm thanh của thiên nhiên và tất cả các loại giai điệu. Họ thích đi theo la bàn bằng chân, đánh hoặc lắc một số vật thể nhịp Trí thông minh giữa các cá nhânĐó là khả năng phân biệt và nhận thức các trạng thái cảm xúc và dấu hiệu liên cá nhân của người khác, và phản ứng hiệu quả với những hành động đó một cách thực em thích làm việc trong một nhóm, những người có sức thuyết phục trong các cuộc đàm phán với các đồng nghiệp và người cao niên, những người hiểu đối Trí thông minh nội tâmĐó là khả năng thấu hiểu bản thân và hành động do đó dựa trên kiến ​​thức này, để có một hình ảnh chính xác và khả năng tự kỷ luật, hiểu biết và yêu thương bản được chứng minh bởi những đứa trẻ chu đáo, lý luận tốt và thường là cố vấn của cha mẹ chúng. Howard Gardner lấy ví dụ như một đứa trẻ tự kỷ để minh họa cho loại trí thông minh bị hư hại này "đứa trẻ có thể không thể đề cập đến chính mình. Đồng thời, anh thường thể hiện khả năng phi thường trong lĩnh vực âm nhạc, không gian hoặc cơ học"8. Trí thông minh tự nhiênBổ sung mới nhất vào danh sách đa trí tuệ là trí thông minh tự nhiên được thêm vào trong phiên bản năm 1995[2]. Điều này được định nghĩa là khả năng phân biệt, phân loại và sử dụng các yếu tố của môi trường, vật thể, động vật hoặc thực vật. Càng nhiều môi trường đô thị như ngoại thành hay nông thôn. Nó bao gồm các kỹ năng quan sát, thử nghiệm, phản xạ và đặt câu hỏi về môi trường của chúng xảy ra ở trẻ em yêu động vật, thực vật; người nhận ra và thích điều tra các đặc điểm của thế giới tự nhiên và nhân tạo. Nhiều trí tuệ trong lớp học các hoạt động cho giáo dục Với sự giúp đỡ của Howard Gardner, nhà giáo dục và nhà văn Thomas Armstrong đã quyết định áp dụng lý thuyết đa trí tuệ trong lĩnh vực giáo dục, viết cuốn sách nổi tiếng "Nhiều trí tuệ trong lớp học"[3]"vào năm cuốn sách này, Armstrong đề xuất nghiên cứu và mô tả sự thông minh của học sinh với mục đích có thể phát triển nhiều trí tuệ trong lớp học. Bản thân nhà giáo dục thừa nhận rằng việc phát triển một hồ sơ đa trí tuệ không phải là điều đơn giản, tuy nhiên, ông đề xuất một loạt các khẳng định cho từng loại trí thông minh để chúng ta có thể phân loại chính xác trẻ sơ sinh theo liệu chúng có cảm nhận được những nhận định này hay không..Nhiều trí tuệ và chiến lược giảng dạyĐể khuyến khích sự phát triển cá nhân và tiềm năng con người của học sinh, điều quan trọng là áp dụng chiến lược giảng dạy cho mỗi học sinh theo loại trí thông minh mà chúng ta muốn làm việc. Ví dụ, nếu chúng ta muốn phát triển trí thông minh không gian, chúng ta có thể thực hiện các động lực sauHiển thịDấu hiệu màuẨn dụ đồ họaPhác thảo ý tưởngBiểu tượng đồ họaMặt khác, nếu những gì chúng ta muốn là thúc đẩy trí tuệ giữa các cá nhân, Các chiến lược giảng dạy sẽ như sauChia sẻ với bạn cùng lớpLập nhóm hợp tácBan trò chơiTrò chơi RPG giữa các bạn cùng lớpHiện tại, mọi người nói về sự phát triển toàn diện của trẻ, nghĩa là nó bao gồm tất cả các khía cạnh của sự phát triển thể chất, tình dục, nhận thức, xã hội, đạo đức, ngôn ngữ, tình cảm, đây là cơ sở của lý thuyết về Phát triển đa trí hai loại kinh nghiệm cực kỳ quan trọng trong việc phát triển trí thông minh cần phải tính đến, đó là kinh nghiệm kết tinh và kinh nghiệm tê tiên, kinh nghiệm kết tinh, chúng là những cột mốc quan trọng trong lịch sử cá nhân, là chìa khóa cho sự phát triển tài năng và kỹ năng con người. Thường những sự kiện này xảy ra trong thời thơ ấu. Những kinh nghiệm này là những kinh nghiệm khơi dậy tia sáng của trí thông minh và khởi đầu sự phát triển của nó theo hướng trưởng khác kinh nghiệm tê liệt chúng tồn tại như một đối trọng với những cái trước đó, chúng đề cập đến những trải nghiệm ngăn chặn sự phát triển của trí thông minh, chúng chứa đầy những cảm xúc tiêu cực, có khả năng ngăn chặn sự phát triển bình thường của trí tuệ. Cảm giác sợ hãi, xấu hổ, tội lỗi, hận thù, ngăn bạn phát triển trí tuệ. Có khả năng, sau trải nghiệm này, một đứa trẻ quyết định không đến gần hơn với một nhạc cụ hoặc không vẽ thêm vì nó đã quyết định rằng “anh ấy không thể làm điều đó”. Các hoạt động phát triển đa trí tuệ các Lý thuyết đa trí tuệ bởi Howard Gardner đã tác động đến những người tham gia bằng cách này hay cách khác trong quá trình dạy và học. Ở nhiều thành phố của Hoa Kỳ, tại Puerto Rico, Philippines, Singapore, cũng như ở Châu Âu, đã có những trường học được thực hiện nhằm mục đích phát triển những trí tuệ khác nhau mà cá nhân sở hữu..Khả năng trí tuệ là bao nhiêu, và bao nhiêu năng lực phát triển chúng tôi sở hữu Tuy nhiên, khi chúng tôi phân tích các chương trình giảng dạy được dạy ở nhiều cơ sở và bắt buộc học sinh, trẻ em phải tuân theo, chúng tôi nhận thấy rằng chúng bị giới hạn trong việc tập trung vào ưu thế của sự thông minh về ngôn ngữ và toán học đưa ra tầm quan trọng tối thiểu cho các khả năng khác của kiến ​​thức. Lý do tại sao nhiều sinh viên không nổi trội trong lĩnh vực trí tuệ học thuật truyền thống, không được công nhận và pha loãng đóng góp của họ cho lĩnh vực văn hóa và xã hội, và một số người nghĩ rằng họ không thành công, trong thực tế, họ đang bị loại bỏ tài năng của với các mô tả ở trên, chúng tôi biết rằng không có trí thông minh chung phát triển hoặc đình trệ, nhưng nhiều khía cạnh của trí thông minh, một số nhạy cảm hơn nhiều so với những khía cạnh khác để sửa đổi các kích thích thích học đa trí tuệĐã có nói về “Trường học đa trí tuệ”, nơi học sinh học tập và được củng cố trí tuệ thông qua một chương trình giảng dạy thay vì nhấn mạnh việc giảng dạy thông qua trí thông minh, các trường học nhấn mạnh việc giảng dạy “cho” thông minh Học sinh được thúc đẩy để đạt được các mục tiêu mà họ đã đặt ra cho mình..Giáo viên phát triển chiến lược giảng dạy có tính đến các khả năng thu nhận kiến ​​thức khác nhau mà trẻ có. Nếu anh ta không hiểu thông qua trí thông minh được chọn để thông báo cho anh ta, hãy xem xét rằng có ít nhất bảy cách khác nhau để huynh có sự tham gia tích cực trong kế hoạch các hoạt động giúp làm phong phú thêm chương trình giảng dạy và tham dự các cuộc họp nơi tiến trình của con cái họ được thảo luận, và ở nhà, chúng kích thích, hiểu và khuyến khích con cái phát triển khả năng của này mở ra từ Lý thuyết Đa trí tuệ này một bước đột phá với những mô hình giảng dạy cũ. Đa thông minh KIỂM TRA Dưới đây, chúng tôi cung cấp cho bạn các lựa chọn thay thế để bạn có thể đo lường các khía cạnh và khả năng tinh thần khác liên quan đến lý thuyết đa trí tuệ của Howard GardnerĐể biết những gì góc phần tư chiếm ưu thế trong não của bạn, chúng tôi đề xuất thử nghiệm thống trị tìm hiểu của bạn tuổi tâm thần, chúng tôi cung cấp cho bạn bài kiểm tra tuổi tâm thần những gì bạn muốn là biết CI của bạn, bạn có thể thực hiện bài kiểm tra trí thông minh này. Bài viết này hoàn toàn là thông tin, trong Tâm lý học trực tuyến, chúng tôi không có khoa để chẩn đoán hoặc đề nghị điều trị. Chúng tôi mời bạn đi đến một nhà tâm lý học để điều trị trường hợp của bạn nói riêng. Nếu bạn muốn đọc thêm bài viết tương tự như Các loại đa trí tuệ và lý thuyết của Howard Gardner, Chúng tôi khuyên bạn nên nhập danh mục Tâm lý học nhận thức của chúng tôi. Tài liệu tham khảo Mảnh vỡ của cuốn sách của Gardner, H. 2016. Cấu trúc của tâm trí lý thuyết về đa trí tuệ. Quỹ văn hóa kinh tếNgười làm vườn, H. 1995. Đa trí tuệ Tập 1. Barcelona T., Rivas, M. P., Gardner, H., & Brizuela, B. 1999. Nhiều trí tuệ trong lớp học. Buenos Aires, Argentina Mùa xuân. Thuyết đa trí tuệ là một lý thuyết về trí thông minh của con người được nhìn nhận bằng nhiều cách, mang tính đa dạng, được nghiên cứu và công bố bởi tiến sĩ Howard Gardner.[1] Theo Gardner, trí thông minh intelligence được ông quan niệm như sau "là khả năng giải quyết các vấn đề hoặc tạo ra các sản phẩm mà các giải pháp hay sản phẩm này có giá trị trong một hay nhiều môi trường văn hóa" và trí thông minh cũng không thể chỉ được đo lường duy nhất qua chỉ số IQ. hình ảnh biểu trưng cho thuyết đa trí tuệ Năm 1983, ông đã xuất bản một cuốn sách có nhan đề Frames of Mind tạm dịch Cơ cấu của trí tuệ, trong đó ông công bố các nghiên cứu và lý thuyết của mình về sự đa dạng của trí thông minh Theory of Multiple Intelligences.[2]

thuyết đa trí tuệ